. Mình có đọc một bài về Trung đạo, post thêm cho cho "liền mạch", còn ngộ hay không là tùy duyên !
---------
TRUNG ĐẠO
( Trích “Lời Phật dạy” – Bukkyo Dendo Kyokai )
1. Đối với những ai đã chọn con đường dẫn đến sự Giác ngộ, có hai thái cực nên cẩn thận đề phòng. Thứ nhất, có thái cực ham muốn nuông chiều thể xác. Thứ hai, có thái cực đối lập bằng kỷ luật khổ hạnh, hành xác và tinh thần một cách thái quá.
. Chính đạo, vượt khỏi hai thái cực này và dẫn đến sự Giác ngộ, trí tuệ và tâm hồn thanh thản, có thể gọi là Trung đạo. Thế Trung đạo là gì ? Trung đạo gồm Bát chính đạo : chính kiến. chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm và chính định.
. Như đã nêu, tất cả sự vật xuất hiện hay biến mất do một loạt nguyên nhân bất tận. Người vô minh nhìn cuộc đời hoặc hiện hữu hay không hiện hữu nhưng người khôn ngoan nhìn xa hơn cả sư hiện hữu lẫn không hiện hữu, một điều gì đó vượt xa hơn cả hai, đây là cách nhìn theo Trung đạo.
2. Giả sử có một khúc gỗ đang nổi trên mặt sông. Nếu khúc gỗ không chìm, hoặc được người ta vớt lên, hoặc không bị mục, sau cùng cũng trôi ra biển. Cuộc sống cũng như khúc gỗ đang ở giữa dòng sông lớn. Nếu người ta không gắn bó với cuộc sống nuông chiều mình, hoặc bằng cách từ bỏ cuộc sống, không gắn bó với cuộc sống hành xác, nếu người ta không tự hào về đức hạnh của mình hoặc không gắn bó với tội hạnh, nếu trong sự tìm kiếm Giác ngộ người ta không có thái độ xem thường ảo tưởng, không sợ nó, thì người như thế đang theo Trung đạo.
. Điều quan trọng là khi theo con đường dẫn đến Giác ngộ là phải tránh bị rơi vào một thái cực bất kỳ, nghĩa là phải luôn theo Trung đạo.
. Biết rằng sự vật không hiện hữu cũng như không phải không hiện hữu, hãy nhớ tính chất của vạn vật cũng giống như giấc mơ, người ta nên tránh thái độ tự hào của nhân cách hoặc ca ngợi dành cho việc làm tốt, hoặc tránh rơi vào bất kỳ điều gì khác.
. Nếu ngươi ta tránh không bị rơi vào dòng chảy ham muốn của chính mình, thì người ta ngay từ đầu phải học cách không phải nắm bắt sự vật nếu không sẽ quen và gắn bó với chúng. Người ta không nên gắn bó với sự hiện hữu, sự không hiện hữu, đối với bất kỳ mọi thứ bên trong hoặc bên ngoài, điều tốt lẫn điều xấu, điều phải lẫn điều quấy.
. Nếu người ta gắn bó với sự vật, chỉ trong khoảnh khắc, ngay lập tức, cuộc sống ảo tưởng sẽ bắt đầu, người đi theo Chánh đạo đạt đến sự Giác ngộ sẽ không hối tiếc, cũng không muốn đề phòng, nhưng bằng suy nghĩ vô tư, tâm hồn thanh thản, sẽ đáp ứng những gì đang đến.
3. Sự Giác ngộ không có hình thức hay tính chất dứt khoát để nó tự thân thể hiện, vì thế trong tự thân sự Giác ngộ, không có gì được giác ngộ.
.Sự Giác ngộ chỉ hiện hữu vì ảo tưởng và sự vô minh, nếu chúng biến mất thì sự Giác ngộ cũng biến mất, và ngược lại: không có sự Giác ngộ xa rời với ảo tưởng và sự vô minh, không có ảo tưởng và vô minh xa rời sự Giác ngộ.
. Vì thế, hãy cảnh giác chống lại suy nghĩ cho rằng sự Giác ngộ như một “sự vật” phải nắm bắt, nếu không, nó sẽ trở thành một điều cản trở. Khi tâm trí đang tăm tối trở thành được giác ngộ, nó sẽ chết, cùng với cái chết của tâm trí, sự vật mà chúng ta gọi là Giác ngộ cũng chết theo.
4. Khái niệm tính duy nhất của vũ trụ này – cho rằng sự vật trong bản chất thật của chúng không có dấu hiệu phân biệt – được gọi là “Sunyata~”, nghĩa là không thực chất, cái chưa ra đời, không có tính chất cái tôi, không có tính đối ngẫu. Là vì sự vật tự thân nó không có hình thức hay đặc điểm mà chúng ta có thể gọi chúng không phải được sinh ra cũng như không phải bị tiêu hủy. Tính chất thật của sự vật có thể mô tả theo nghĩa phân biệt, đó là lý do tại sao sự vật được gọi là không thực chất.
. Như đã nêu, vạn vật xuất hiện và biến mất do nguyên nhân và điều kiện. Không có gì xưa nay tồn tại hoàn toàn đơn độc, mọi thứ đều có mối quan hệ với mọi thứ khác.
. Nơi nào có ánh sáng thì nơi đó có bóng tối, nơi nào có dài thì nơi đó cũng có ngắn, nơi nào có màu trắng thì nơi đó cũng có màu đen. Cũng như những điều này, tính chất cái tôi của sự vật không thể tồn tại đơn độc, chúng được gọi là không thực chất.
5. Người ta thường có thói quen nghĩ mình có quan hệ với sinh tử, nhưng thật ra không hề có những khái niệm như thế.
. Khi người ta nhận biết được chân lý này, thì họ cũng biết được chân lý của tính không đối ngẫu của sinh tử.
. Con người đặt ra sự phân biệt giữa thanh khiết và ô uế nhưng trong bản chất của sự vật không hề có sự phân biệt, ngoại trừ khi nó bắt nguồn từ những hình ảnh sai lầm, vô lý trong suy nghĩ của họ.
. Tương tự, những người phân biệt giữa thiện và ác, nhưng thiện ác không tồn tại cách biệt nhau. Những người đi theo con đường dẫn đến sự Giác ngộ không nhận biết tính đối ngẫu như thế, và khiến họ không ca ngợi điều thện cũng như lên án điều ác, không xem thường điều thiện cũng như không tha thứ điều ác.
. Con người bản chất sợ bất hạnh và khao khát vận may, nhưng nếu sự phân biệt được nghiên cứu cẩn thận, thì bất hạnh thường hóa ra là vận may và vận may thường hóa ra là bất hạnh. Người hiểu biết học cách đối phó với những hoàn cảnh luôn thay đổi của cuộc sống bằng sự vô tư, không tự hào khi thành công cũng như không thất vọng khi thất bại. Vì thế người ấy nhận biết chân lý của tính không đối ngẫu.
6. Nếu thợ lặn muốn có được ngọc trai, anh ta phải lặn sâu xuống biển, dũng cảm đối mặt với đá san hô nhọn hoắt và cá mập hung dữ. Con người cũng đối mặt với những nguy hiểm đam mê như thế nếu muốn tìm được ngọc quý Giác ngộ. Đầu tiên anh ta bị lạc đường trong vách đá cheo leo của tính ích kỷ và cố chấp, trước khi mong muốn tìm đường dẫn đến Giác ngộ được đánh thức trong anh ta.
. Có một truyền thuyết kể rằng một ẩn sĩ khao khát tìm được con đường chân lý đến mức ông ta trèo lên núi gươm và tự gieo minh xuống lửa, cam chịu như thế vì hy vọng. Người sẵn sàng chấp nhận những hiểm nguy mình gặp trên đường sẽ cảm nhận được một làn gió nhẹ, mát thổi qua ngọn núi ích kỷ lởm chởm như gươm và trong ngọn lửa thù hận, cuối cùng, cũng nhận biết được tính ích kỷ và đam mê trần tục mình đang đấu tranh và chịu đựng là tự thân sự Giác ngộ.
7. Lời dạy của Đức Phật đưa chúng ta đến sự không đối ngẫu, từ việc phân biệt khái niệm của hai quan điểm mâu thuẫn nhau. Thật sai lầm khi con người tìm kiếm một điều gì đó được cho là thiện và đúng, và xa lánh một điều gì đó được cho là ác và xấu.
. Nếu con người cứ nhất mực cho rằng vạn vật là vô nghĩa và chỉ mang tính nhất thời, thì cũng thật sai lầm khi cho rằng vạn vật là thực, không thay đổi . Nếu một người gắn bó với nhân cách-bản ngã của mình , thì hành động này cũng sai lầm vì không thể giúp anh ta thoát khỏi bất mãn hay đau khổ. Nếu anh ta tin rằng không có bản ngã, thì cũng sai lầm và vô ích đối với anh ta khi rèn luyện Đạo. Nếu người ta khẳng định vạn vật là đau khổ, thì cũng sai lầm, nếu họ khẳng định vạn vật là hạnh phúc, thì cũng sai lầm. Đức Phật rao giảng Trung đạo vượt khỏi những khái niệm đầy thành kiến này, nơi tính đối ngẫu hợp nhất thành tính chất tổng thể.
---------
TRUNG ĐẠO
( Trích “Lời Phật dạy” – Bukkyo Dendo Kyokai )
1. Đối với những ai đã chọn con đường dẫn đến sự Giác ngộ, có hai thái cực nên cẩn thận đề phòng. Thứ nhất, có thái cực ham muốn nuông chiều thể xác. Thứ hai, có thái cực đối lập bằng kỷ luật khổ hạnh, hành xác và tinh thần một cách thái quá.
. Chính đạo, vượt khỏi hai thái cực này và dẫn đến sự Giác ngộ, trí tuệ và tâm hồn thanh thản, có thể gọi là Trung đạo. Thế Trung đạo là gì ? Trung đạo gồm Bát chính đạo : chính kiến. chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm và chính định.
. Như đã nêu, tất cả sự vật xuất hiện hay biến mất do một loạt nguyên nhân bất tận. Người vô minh nhìn cuộc đời hoặc hiện hữu hay không hiện hữu nhưng người khôn ngoan nhìn xa hơn cả sư hiện hữu lẫn không hiện hữu, một điều gì đó vượt xa hơn cả hai, đây là cách nhìn theo Trung đạo.
2. Giả sử có một khúc gỗ đang nổi trên mặt sông. Nếu khúc gỗ không chìm, hoặc được người ta vớt lên, hoặc không bị mục, sau cùng cũng trôi ra biển. Cuộc sống cũng như khúc gỗ đang ở giữa dòng sông lớn. Nếu người ta không gắn bó với cuộc sống nuông chiều mình, hoặc bằng cách từ bỏ cuộc sống, không gắn bó với cuộc sống hành xác, nếu người ta không tự hào về đức hạnh của mình hoặc không gắn bó với tội hạnh, nếu trong sự tìm kiếm Giác ngộ người ta không có thái độ xem thường ảo tưởng, không sợ nó, thì người như thế đang theo Trung đạo.
. Điều quan trọng là khi theo con đường dẫn đến Giác ngộ là phải tránh bị rơi vào một thái cực bất kỳ, nghĩa là phải luôn theo Trung đạo.
. Biết rằng sự vật không hiện hữu cũng như không phải không hiện hữu, hãy nhớ tính chất của vạn vật cũng giống như giấc mơ, người ta nên tránh thái độ tự hào của nhân cách hoặc ca ngợi dành cho việc làm tốt, hoặc tránh rơi vào bất kỳ điều gì khác.
. Nếu ngươi ta tránh không bị rơi vào dòng chảy ham muốn của chính mình, thì người ta ngay từ đầu phải học cách không phải nắm bắt sự vật nếu không sẽ quen và gắn bó với chúng. Người ta không nên gắn bó với sự hiện hữu, sự không hiện hữu, đối với bất kỳ mọi thứ bên trong hoặc bên ngoài, điều tốt lẫn điều xấu, điều phải lẫn điều quấy.
. Nếu người ta gắn bó với sự vật, chỉ trong khoảnh khắc, ngay lập tức, cuộc sống ảo tưởng sẽ bắt đầu, người đi theo Chánh đạo đạt đến sự Giác ngộ sẽ không hối tiếc, cũng không muốn đề phòng, nhưng bằng suy nghĩ vô tư, tâm hồn thanh thản, sẽ đáp ứng những gì đang đến.
3. Sự Giác ngộ không có hình thức hay tính chất dứt khoát để nó tự thân thể hiện, vì thế trong tự thân sự Giác ngộ, không có gì được giác ngộ.
.Sự Giác ngộ chỉ hiện hữu vì ảo tưởng và sự vô minh, nếu chúng biến mất thì sự Giác ngộ cũng biến mất, và ngược lại: không có sự Giác ngộ xa rời với ảo tưởng và sự vô minh, không có ảo tưởng và vô minh xa rời sự Giác ngộ.
. Vì thế, hãy cảnh giác chống lại suy nghĩ cho rằng sự Giác ngộ như một “sự vật” phải nắm bắt, nếu không, nó sẽ trở thành một điều cản trở. Khi tâm trí đang tăm tối trở thành được giác ngộ, nó sẽ chết, cùng với cái chết của tâm trí, sự vật mà chúng ta gọi là Giác ngộ cũng chết theo.
4. Khái niệm tính duy nhất của vũ trụ này – cho rằng sự vật trong bản chất thật của chúng không có dấu hiệu phân biệt – được gọi là “Sunyata~”, nghĩa là không thực chất, cái chưa ra đời, không có tính chất cái tôi, không có tính đối ngẫu. Là vì sự vật tự thân nó không có hình thức hay đặc điểm mà chúng ta có thể gọi chúng không phải được sinh ra cũng như không phải bị tiêu hủy. Tính chất thật của sự vật có thể mô tả theo nghĩa phân biệt, đó là lý do tại sao sự vật được gọi là không thực chất.
. Như đã nêu, vạn vật xuất hiện và biến mất do nguyên nhân và điều kiện. Không có gì xưa nay tồn tại hoàn toàn đơn độc, mọi thứ đều có mối quan hệ với mọi thứ khác.
. Nơi nào có ánh sáng thì nơi đó có bóng tối, nơi nào có dài thì nơi đó cũng có ngắn, nơi nào có màu trắng thì nơi đó cũng có màu đen. Cũng như những điều này, tính chất cái tôi của sự vật không thể tồn tại đơn độc, chúng được gọi là không thực chất.
5. Người ta thường có thói quen nghĩ mình có quan hệ với sinh tử, nhưng thật ra không hề có những khái niệm như thế.
. Khi người ta nhận biết được chân lý này, thì họ cũng biết được chân lý của tính không đối ngẫu của sinh tử.
. Con người đặt ra sự phân biệt giữa thanh khiết và ô uế nhưng trong bản chất của sự vật không hề có sự phân biệt, ngoại trừ khi nó bắt nguồn từ những hình ảnh sai lầm, vô lý trong suy nghĩ của họ.
. Tương tự, những người phân biệt giữa thiện và ác, nhưng thiện ác không tồn tại cách biệt nhau. Những người đi theo con đường dẫn đến sự Giác ngộ không nhận biết tính đối ngẫu như thế, và khiến họ không ca ngợi điều thện cũng như lên án điều ác, không xem thường điều thiện cũng như không tha thứ điều ác.
. Con người bản chất sợ bất hạnh và khao khát vận may, nhưng nếu sự phân biệt được nghiên cứu cẩn thận, thì bất hạnh thường hóa ra là vận may và vận may thường hóa ra là bất hạnh. Người hiểu biết học cách đối phó với những hoàn cảnh luôn thay đổi của cuộc sống bằng sự vô tư, không tự hào khi thành công cũng như không thất vọng khi thất bại. Vì thế người ấy nhận biết chân lý của tính không đối ngẫu.
6. Nếu thợ lặn muốn có được ngọc trai, anh ta phải lặn sâu xuống biển, dũng cảm đối mặt với đá san hô nhọn hoắt và cá mập hung dữ. Con người cũng đối mặt với những nguy hiểm đam mê như thế nếu muốn tìm được ngọc quý Giác ngộ. Đầu tiên anh ta bị lạc đường trong vách đá cheo leo của tính ích kỷ và cố chấp, trước khi mong muốn tìm đường dẫn đến Giác ngộ được đánh thức trong anh ta.
. Có một truyền thuyết kể rằng một ẩn sĩ khao khát tìm được con đường chân lý đến mức ông ta trèo lên núi gươm và tự gieo minh xuống lửa, cam chịu như thế vì hy vọng. Người sẵn sàng chấp nhận những hiểm nguy mình gặp trên đường sẽ cảm nhận được một làn gió nhẹ, mát thổi qua ngọn núi ích kỷ lởm chởm như gươm và trong ngọn lửa thù hận, cuối cùng, cũng nhận biết được tính ích kỷ và đam mê trần tục mình đang đấu tranh và chịu đựng là tự thân sự Giác ngộ.
7. Lời dạy của Đức Phật đưa chúng ta đến sự không đối ngẫu, từ việc phân biệt khái niệm của hai quan điểm mâu thuẫn nhau. Thật sai lầm khi con người tìm kiếm một điều gì đó được cho là thiện và đúng, và xa lánh một điều gì đó được cho là ác và xấu.
. Nếu con người cứ nhất mực cho rằng vạn vật là vô nghĩa và chỉ mang tính nhất thời, thì cũng thật sai lầm khi cho rằng vạn vật là thực, không thay đổi . Nếu một người gắn bó với nhân cách-bản ngã của mình , thì hành động này cũng sai lầm vì không thể giúp anh ta thoát khỏi bất mãn hay đau khổ. Nếu anh ta tin rằng không có bản ngã, thì cũng sai lầm và vô ích đối với anh ta khi rèn luyện Đạo. Nếu người ta khẳng định vạn vật là đau khổ, thì cũng sai lầm, nếu họ khẳng định vạn vật là hạnh phúc, thì cũng sai lầm. Đức Phật rao giảng Trung đạo vượt khỏi những khái niệm đầy thành kiến này, nơi tính đối ngẫu hợp nhất thành tính chất tổng thể.